Tháng 7 về, nhớ tình cảm của Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ

Phòng Đào tạo - Dịch vụ tư vấn lao động kể chuyện về Bác Hồ vào sáng thứ 2, ngày 28 tháng 7 năm 2025, với tiêu đề “Tháng 7 về, nhớ tình cảm của Bác Hồ với thương binh, liệt sỹ”, câu chuyện có nội dung như sau:

Có lẽ hiếm nơi nào như Việt Nam – đất nước đã trải qua và chịu nhiều hậu quả của những cuộc chiến tranh để lại. Họ - những liệt sỹ ngã xuống khi mới mười tám đôi mươi. Họ đã nguyện hi sinh tính mạng của mình để giành độc lập, tự do cho dân tộc. Bởi vậy, đất nước Việt Nam được định hình trên bản đồ thế giới cũng từ tinh thần hy sinh cao cả ấy. Hàng năm, mỗi dịp kỷ niệm ngày Thương binh – Liệt sỹ (27/7), chúng ta lại nhớ về những người lính đã quên mình hy sinh vì nước, vì dân, đồng thời cũng nhớ đến những tình cảm đặc biệt, tình thương yêu vô hạn mà Bác Hồ đã dành cho thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ.

Suốt 24 năm kể từ ngày nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa ra đời (tháng 9/1945) đến tháng 5/1969, có khoảng 25 lần Bác Hồ gửi thư thăm hỏi anh chị em thương binh, gia đình liệt sỹ. Trong nhiều bài nói, bài viết và các bức thư của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định và ghi nhận sự hy sinh cao cả của các thương binh, anh hùng liệt sỹ. Người nói: “Máu đào của các liệt sỹ ấy đã làm cho lá cờ cách mạng thêm đỏ chói. Sự hy sinh anh dũng của các liệt sỹ đã chuẩn bị cho đất nước ta nở hoa độc lập, kết quả tự do”.

Ngày 19/12/1946, sau Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh, chiến tranh lan rộng ra nhiều vùng. Số người bị thương và tử nạn tăng lên rất nhanh do sự chênh lệch về trang bị vũ khí cũng như những chiến thuật chiến đấu. Đời sống của binh lính lúc đó, nhất là những binh sỹ bị thương, gia đình liệt sỹ gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Thông báo “về việc nhận con các liệt sỹ làm con nuôi”. Thông báo có đoạn viết: “Tôi gửi lời chào thân ái cho gia đình các liệt sỹ đó và tôi nhận con các liệt sỹ làm con nuôi của tôi”. Người đã yêu cầu các làng, chính quyền địa phương lập danh sách, xem xét, nếu đúng sự thật thì “đóng dấu chứng nhận rồi gửi ngay về Văn phòng Chủ tịch Chính phủ ở Hà Nội”.

Ngày 16/2/1947, trên cương vị Chủ tịch nước, Người ký Sắc lệnh số 20/SL ban hành chế độ hưu bổng thương tật và tiền tử tuất. Đây là văn bản pháp quy đầu tiên đặt nền tảng cho chính sách thương binh, liệt sỹ của nước ta.

          Cuộc kháng chiến toàn quốc chống Pháp đã thu hút nhiều thanh niên tham gia chiến đấu. Một số chiến sĩ đã hy sinh anh dũng, một số nữa là thương binh, bệnh binh, đời sống gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình ấy, tháng 6/1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh đề nghị Chính phủ chọn một ngày nào đó trong năm làm “Ngày thương binh” để đồng bào ta có dịp tỏ lòng hiếu nghĩa, yêu mến thương binh. Hưởng ứng và đáp lại tấm lòng của Bác, một hội nghị trù bị của Trung ương tổ chức tại xã Phú Ninh, huyện Đại Từ, tỉnh Thái Nguyên, đã nhất trí lấy ngày 27/7 là “Ngày thương binh toàn quốc”. Đến tháng 7 năm 1955, Đảng và Nhà nước ta quyết định đổi ngày này thành ngày “Thương binh - liệt sỹ” và tên gọi đó được trân trọng lưu giữ cho đến hiện nay.

Chủ tịch Hồ Chí Minh chụp ảnh lưu niệm với con em các gia đình có công với Cách mạng tại Pác Bó 02-1961

Ý nghĩa câu chuyện

Có thể nói, ở mọi lúc, mọi nơi, mọi thời điểm, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành cho thương binh, liệt sỹ những tình cảm, sự quan tâm đặc biệt nhất. Tình cảm đó không chỉ là những lời kêu gọi mộc mạc, chân thành, giản dị mà còn thể hiện qua hành động cụ thể đối với thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sỹ.

          Với truyền thống “Uống nước nhớ nguồn, ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi người dân Việt Nam cần tích cực học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, cùng với Đảng, Nhà nước, các ban ngành, đoàn thể các cấp thực hiện tốt các chính sách xã hội, chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của thương binh, bệnh binh và gia đình có công. Đó là tình cảm, trách nhiệm, là bổn phận của mỗi chúng ta và của toàn xã hội.

Kể chuyện về Bác Hồ vào sáng thứ hai (tuần 31)

 Phòng Phòng Đào tạo - Dịch vụ tư vấn lao động 

   Người soạn: Phạm Thị Hồng Huệ

Người kể: Lê Thị Mộng Hiền

(Trích nguồn: Cổng thông tin điện tử)